Thông tin Y khoa: Rối loạn mang (Tên Tiếng Anh:Branchial disorders )
Một nhóm các rối loạn do sự phát triển bất thường của cung mang ở phôi.
Một cặp tuyến nội tiết (tuyến sản sinh hormon trực tiếp vào máu) nhỏ, hình tam giác, nằm trên thận. Mỗi một tuyến thượng thận có thể được chia ra theo giải phẫu và theo chức năng thành hai phần riêng biệt; vỏ thượng thận ở bên ngoài và phần nhỏ hơn, tủy thượng thận ở bên trong.
Phần này sản sinh một nhóm hormon được gọi là hormon corticosteroid, có nhiều ảnh hưởng quan trọng đến cơ thể. Vỏ thượng thận gồm ba phần có thế phân biệt được dưới kính hiển vi. Phần ngoài cùng sản sinh hormon aldosteron, hormon này giúp duy trì thể tích máu và huyết áp bằng cách hạn chế lượng natri được thải ra trong nước tiểu.
Phân trong và giữa sản sinh hormon hydrocortison (cũng được gọi là cortisol) và corticosteron, và một lượng nhỏ hormon androgen (hormon kích thích phát triển đặc điểm giới tính nam).
Hydrocortison là loại corticosteroid quan trọng nhất của con người, nó kiểm soát việc sử dụng chất béo, protein và carbohydrat.
Hydrocortison và corticosteron cũng có ảnh hưởng ức chế những phản ứng viêm trong cơ thể và tới một giới hạn nào đó kiềm chế các hoạt động của hệ thống miễn dịch.
Sự sản sinh hormon của vỏ thượng thận được kiểm soát bởi các loại hormon khác ở vùng dưới đồi và tuyến yên. Tỉ lệ hydrocortison sản sinh được kiểm soát bởi sự giải phóng ACTH (adrenocorticotrophic hormon) tuyến yên và thay đổi trong ngày, thấp nhất vào lúc nửa đêm, lên đến mức cao nhất vào khoảng 6 giờ sáng và giảm một cách từ từ trong suốt thời gian còn lại của ngày. Xúc cảm, stress và chấn thương là các nhân tố kích thích giải phóng ACTH và hydrocortison, cơ thể không có khả năng hồi phục một cách đúng đắn sau khi bị stress nếu thiếu hydrocortison.
Tủy thượng thận là một phần của bộ phận thần kinh giao cảm của hệ thần kinh tự chủ, là tuyến dẫn để chống lại stress. Tủy thượng thận có liên hệ chặt chẽ với mô thần kinh và sản sinh hormon adrenalin và noradrenalin để đáp ứng lại sự kích thích hệ thần kinh này tăng hoạt tính trong stress.
Việc giải phóng các hormon này vào hệ tuần hoàn gây ảnh hưởng giống như kích thích hệ thần kinh giao cảm. Nhịp tim cũng như lực co bóp cơ tim tăng lên, như vậy máu có thể được bơm nhiều hơn trong cơ thể, và đường thở của phổi được mở rộng để có thể hô hấp dễ dàng hơn. Các hormon này làm co hẹp các mạch máu ở ruột, thận, gan và làm giãn mạch máu cung cấp cho cơ xương, vì vậy, máu được cung cấp cho các cơ nhiều hơn và cho các cơ quan nội tạng ít hơn.
Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.
Một nhóm các rối loạn do sự phát triển bất thường của cung mang ở phôi.
Khối u phát triển từ niêm mạc bàng quang.
Một nhóm các tình trạng có đặc điểm chảy máu mà không có chấn thương hoặc chảy máu nhiều, kéo dài bất thường sau chấn thương.
Tên thường dùng của nhiễm khuẩn huyết cùng với nhiễm độc máu.
Sự tắc nghẽn hoặc co thắt bất cứ ống nào mang mật đi từ gan đến túi mật và sau đó đến tá tràng.
Một rối loạn hiếm thấy, có từ khi sinh, trong đó các ống mật, phía trong hoặc phía ngoài gan, không có khả năng phát triển bình thường hoặc đã phát triển bất thường. Kết quả là mật không thể chảy qua ống đến tá tràng và bị mắc lại trong gan. Trừ khi được điều trị, có thế bị xơ gan mật thứ phát.