Nguyễn Lân Hiếu; Nguyễn Duy Thắng; Nguyễn Văn Hiếu; Trần Hồng Quân |  11/01/2025

Kiến thức cần biết về bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (infective endocarditis – VNTMNK) ít gặp ở trẻ em hơn người lớn, mặc dù tỷ lệ mắc ở trẻ em đang ngày một gia tăng do bệnh nhân tim bẩm sinh hiện có đời sống kéo dài hơn.

Đặc điểm dịch tễ

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (VNTMNK) (infective endocarditis) là nhiễm khuẩn màng trong của tim do vi khuẩn hoặc vi nấm, và một số trường hợp hiếm do Chlamydia hay Rickettsia. 

Tỷ lệ mắc

Viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn (infective endocarditis – VNTMNK) ít gặp ở trẻ em hơn người lớn, mặc dù tỷ lệ mắc ở trẻ em đang ngày một gia tăng do bệnh nhân tim bẩm sinh hiện có đời sống kéo dài hơn. Dịch tễ học VNTMNK ở các nước phát triển đang có nhiều thay đổi. Có sự gia tăng sống sót của trẻ em có tim bẩm sinh cùng với giảm tỷ lệ mắc bệnh thấp tim nên ở hầu hết các quốc gia, bệnh tim bẩm sinh là bệnh nền phổ biến nhất của VNTMNK.

Sau phẫu thuật sửa chữa các bệnh lý tim bẩm sinh phức tạp, bệnh nhân có nguy cơ lâu dài VNTMNK, mặc dù có tới 1/10 trường hợp gặp ở trẻ em không có bệnh tim mạch cấu trúc hoặc các yếu tố nguy cơ gây bệnh có thể xác định được. Bệnh cảnh thường nhiễm trùng van động mạch chủ hoặc van hai lá do nhiễm khuẩn huyết Staphylococcus aureus. Tỷ lệ mắc viêm nội tâm mạc ở trẻ sơ sinh cũng đang gia tăng, tỷ lệ tử vong ở nhóm tuổi này khá cao và chẩn đoán chỉ được thực hiện sau khi tử vong.

Phẫu thuật sớm các dị tật tim bẩm sinh với sử dụng nhiều đường tiêm truyền tĩnh mạch, các thiết bị can thiệp hỗ trợ, cùng với sự phát triển của các biện pháp hỗ trợ can thiệp đặc biệt cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ làm tăng nguy cơ viêm nội tâm mạc. Những thay đổi mô hình VNTMNK như trên không xảy ra ở các nước nghèo hoặc đang phát triển trên thế giới. Ở các nước này, bệnh thấp tim vẫn còn phổ biến và việc tiếp cận phẫu thuật tim bẩm sinh còn hạn chế, vì vậy thấp tim với tổn thương van hai lá và van động mạch chủ vẫn là bệnh nền phổ biến nhất cho VNTMNK.

Tử vong

Hầu hết bệnh nhân VNTMNK đều tử vong trong thời kỳ kháng sinh chưa ra đời. Khi có sulphonamides, một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân đã được điều trị thành công. Sau đó nó được thay thế bởi penicillin, một loại thuốc hiệu quả hơn và ít tác dụng phụ hơn, cứu sống hơn hai phần ba số bệnh nhân nhiễm bệnh.

Ngày nay tỷ lệ tử vong giảm xuống còn rất thấp do những tiến bộ trong liệu pháp kháng sinh, phát hiện sớm viêm nội tâm mạc, kiểm soát tích cực các biến chứng và cải thiện các kỹ thuật phẫu thuật. Mặc dù có nhiều cải thiện, khoảng một phần mười đến một phần tư số bệnh nhân có bệnh tim bẩm sinh vẫn có thể tử vong do VNTMNK.

Cơ chế sinh bệnh

Cấu trúc nội mạc còn nguyên vẹn có khả năng chống lại sự xâm chiếm của các vi sinh vật. Tổn thương xói mòn bề mặt nội mô do huyết động (dòng chảy) hoặc do cơ học là tác nhân chính của việc hình thành huyết khối. Sự lắng đọng của tiểu cầu và fibrin trên lớp nội mạc bị tổn thương được gọi là viêm nội tâm mạc do huyết khối (không do vi khuẩn). Đây là tổn thương quan trọng, tạo bề mặt cho vi khuẩn bám vào nội mạc, dẫn đến sự phát triển của VNTMNK. Khi vi sinh vật xâm nhập vào máu, chúng xâm nhập vào bề mặt nội mô bị thay đổi, chuyển viêm nội tâm mạc do huyết khối thành VNTMNK. Các thương tổn niêm mạc miệng, đường sinh dục và đường tiêu hóa đặc biệt liên quan đến tăng nguy cơ nhiễm khuẩn huyết.

Xu hướng bám dính vào bề mặt viêm nội tâm mạc do huyết khối phụ thuộc vào loại vi sinh vật. Các sinh vật gram dương như Enterococci hoặc Viridans streptococci có xu hướng bám dính vào bề mặt lá van, trong khi trực khuẩn gram âm như Klebsiella không bám dính. Vì vậy, các vi sinh vật gram dương là nguyên nhân chiếm ưu thế trong VNTMNK. Các yếu tố khác do vi khuẩn bài tiết ra như dextran do Streptococcus viridans được xác định thúc đẩy sự kết dính với van tim.

Nhóm tác giả: PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu; ThS.BS Nguyễn Duy Thắng; ThS.BSNT Nguyễn Văn Hiếu; ThS.BSNT Trần Hồng Quân

> Đọc thêm các bài viết bệnh bệnh tim bẩm sinh tại đây

Tin khác

Xử trí, điều trị và tiên lượng bệnh nhồi máu não

Xử trí, điều trị và tiên lượng bệnh nhồi máu não

Khi phát hiện bệnh nhân đột quỵ, cấp cứu 115 nên nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân an toàn đến cơ sở y tế được trang bị máy chụp CT sọ não và có khả năng điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết để đem lại cho bệnh nhân đột quỵ cơ hội tốt nhất.

Sự kiện Y Khoa  - 
Những điều cần biết về bệnh nhồi máu não

Những điều cần biết về bệnh nhồi máu não

Đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp tính (acute ischemic stroke) hay còn gọi là nhồi máu não là tình trạng dòng máu đột ngột không lưu thông đến một khu vực của não làm mất chức năng thần kinh tương ứng.

Sự kiện Y Khoa  - 
Những điều cần biết về đột quỵ não

Những điều cần biết về đột quỵ não

Đột quỵ não (thường gọi là đột quỵ hay tai biến mạch não) có hai thể lâm sàng chính: đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp tỉnh được đặc trưng bởi sự mất lưu thông máu đột ngột đến một khu vực của não do tắc nghẽn mạch bởi huyết khối hoặc cục tắc ở động mạch não, dẫn đến mất chức năng thần kinh tương ứng. Đột quỵ thiếu máu não hay còn gọi là nhồi máu não (NMN) phổ biến hơn đột quỵ xuất huyết não (XHN) mà nguyên nhân là do nứt vỡ các động mạch trong não.

Sự kiện Y Khoa  - 
Chẩn đoán và điều trị động kinh hiện nay tại Việt Nam

Chẩn đoán và điều trị động kinh hiện nay tại Việt Nam

Động kinh là tình trạng bệnh lý cũng thường gặp với tỷ lệ bệnh mới là 4,4/100.000 dân/năm (7) và tỷ lệ bệnh toàn bộ là 4,4/1000 dân (8). Động kinh ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Sự kiện Y Khoa  - 
Tim bẩm sinh Ebstein: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị

Tim bẩm sinh Ebstein: Nguyên nhân, triệu chứng, cách điều trị

Tim bẩm sinh Ebstein là một bất thường tim bẩm sinh hiếm gặp liên quan đến van ba lá và tâm thất phải. Nguyên nhân do van ba lá phát triển không đúng cách trong 8 tuần đầu ở quá trình phát triển thai nhi, điều trị tim bẩm sinh Ebstein cũng rất phức tạp.

Sự kiện Y Khoa  -