Kiến thức về bệnh mày đay ở trẻ em
Bệnh mày đay là một tình trạng da thường gặp ở mọi độ tuổi, bao gồm cả trẻ em. Đây cũng là tình trạng phổ biến tại các phòng cấp cứu, phòng khám da liễu và phòng khám dị ứng.
Nguyên nhân gây nên bệnh mày đay
Bệnh mày đay được đặc trưng bởi sự diễn tiến nhanh chóng. Đây là một phản ứng viêm da phức tạp với cơ chế xoay quanh chất trung gian chính là histamine, xảy ra khi cơ thể tiếp xúc với các yếu tố kích thích.
Một số tác nhân thúc đẩy bệnh mày đay bộc phát bao gồm:
Yếu tố tiếp xúc các chất có nguồn gốc động vật hoặc thực vật: Sâu, sứa, nhện, côn trùng, phấn hoa, bụi cỏ, bụi từ môi trường.
Yếu tố vật lý:
- Mày đay do lạnh: Xảy ra sau khi tiếp xúc với không khí lạnh hoặc tắm lạnh.
- Mày đay do nóng: Xảy ra sau khi tiếp xúc ánh sáng mặt trời, tia cực tím, tia xạ, hoặc các nguồn nhiệt.
Yếu tố cơ học: Sức ép từ việc mặc quần áo chật, chà xát.
Thức ăn: Các loại thức ăn như hải sản (tôm, cua, sứa, ghẹ), trứng, bò, thịt, sữa thường là nguyên nhân gây mày đay.
Thuốc và hóa chất: Các loại thuốc như kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, vaccine có thể gây dị ứng tùy theo cơ địa mỗi người. Các loại hóa chất như chất tẩy rửa, chất sát khuẩn cũng có thể là tác nhân.
Tác nhân tâm lý: Sang chấn tâm lý, xúc động mạnh.
Tác nhân gây nhiễm: Ký sinh trùng như ghẻ, giun sán, amib, nhiễm trùng hô hấp trên (tai mũi họng, răng hàm mặt).
Bệnh lý hệ thống: Bệnh như bạch cầu cấp, suy giảm miễn dịch mắc phải, bệnh mô liên kết cũng có thể gây ra bệnh mày đay ở trẻ.
> Xem thông tin khái quát, tin cậy về bệnh mày đay tại đây.
Các biểu hiện của bệnh mày đay ở trẻ em
Khi trẻ mắc bệnh mày đay, da sẽ xuất hiện các sẩn phù hoặc mảng hồng ban phù nề với bờ tròn hoặc không đều, kích thước thay đổi từ vài mm đến 10 - 20cm hoặc lớn hơn. Những mảng này có màu hồng, nếu lan rộng ra ngoại vi thì trung tâm sẽ có màu trắng, cảm giác sờ vào căng và ngứa nhiều. Ngứa thường xảy ra trước khi phát ban và lan tỏa ra cả ngoài vùng phát ban. Dựa vào thời gian khỏi bệnh, bệnh mày đay có thể chia thành hai loại là mày đay cấp và mày đay mạn tính.
- Mày đay cấp tính: Xuất hiện dưới 6 tuần. Trong các trường hợp này, cần loại trừ các giai đoạn nặng của phản vệ (từ độ 2 trở lên). Khoảng 50% các trường hợp mày đay cấp tính có yếu tố thúc đẩy, thường gặp nhất là nhiễm trùng hô hấp trên (40%), phản ứng thuốc (9,2%) và thức ăn (0,9%). Còn lại khoảng 50% là mày đay vô căn.
- Mày đay mạn tính: Kéo dài trên 6 tuần. Trong số này, khoảng 50% là mày đay vô căn, 25% có yếu tố thúc đẩy, 20% liên quan đến bệnh tự miễn, 5% liên quan đến bệnh nhiễm trùng và 5% là do giả dị ứng.
Để xác định mày đay cấp tính, các bác sĩ sẽ thực hiện một số xét nghiệm, đặc biệt khi nghi ngờ nguyên nhân dị ứng như phản ứng qua trung gian IgE bằng nghiệm pháp lẩy da và miễn dịch huỳnh quang.
Trong trường hợp mày đay mạn tính, xét nghiệm bao quát không được khuyến cáo vì hiếm khi xác định được nguyên nhân hay ảnh hưởng đến việc kiểm soát bệnh lâu dài. Việc xét nghiệm tìm nguyên nhân các bệnh lý tự miễn nên dựa vào bệnh sử và tiền sử của bệnh nhân.
Phương pháp điều trị bệnh mày đay ở trẻ em
Điều trị bệnh mày đay dựa trên nguyên tắc điều trị khi cần và sử dụng liều thấp nhất có thể, tức là điều chỉnh phác đồ theo diễn tiến của bệnh.
Xác định và loại trừ nguyên nhân gây bệnh, tránh các yếu tố khởi phát: Việc chẩn đoán chính xác nguyên nhân gây bệnh là rất cần thiết, tuy nhiên, điều này thường khó khăn do hơn 50% các trường hợp mày đay là vô căn.
Cảm ứng dung hòa: Phương pháp này hiệu quả trong một số dạng mày đay như mày đay do lạnh, ánh nắng, hoặc tia xạ.
Điều trị bằng thuốc:
- Kháng histamine: Đây là thuốc chủ lực trong điều trị mày đay. Điều trị hàng đầu là sử dụng kháng H1 ở liều thấp, nếu không đáp ứng, có thể nâng liều lên gấp 4 lần so với liều tiêu chuẩn cho đến khi có kết quả.
- Phối hợp thuốc: Nếu bệnh vẫn chưa được kiểm soát, có thể phối hợp với kháng H2 hoặc chất đối kháng Leucotrien – Receptor.
- Corticoid toàn thân: Có thể được sử dụng nếu cần thiết.
- Ức chế miễn dịch: Trong trường hợp cần thiết, có thể xem xét sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch như Cyclosporine, Methotrexate, Dapsone, và các chế phẩm sinh học như Omalizumab.
(Bài viết tham khảo, biên soạn lại từ tài liệu "Mày đay ở trẻ em xử trí ra sao?", link gốc:https://suckhoedoisong.vn/may-day-o-tre-em-can-xu-tri-ra-sao-16924021507185754.htm)
Tin khác
Tái tạo năng lượng, trẻ khỏe toàn diện sau Tết cùng Bệnh viện Quốc tế DNA
Kỳ nghỉ Tết kéo dài có thể để lại cảm giác mệt mỏi, thiếu năng lượng, khiến bạn khó tập trung và bắt nhịp với công việc. Đừng lo, các giải pháp phục hồi sức khỏe hiện đại tại Bệnh viện Quốc tế DNA sẽ giúp bạn nhanh chóng tái tạo năng lượng, nâng cao sự tập trung và phục hồi sức khỏe hiệu quả.
Cơ xương khớp khỏe mạnh - Giấc mơ không còn xa vời tại Bệnh viện Quốc tế DNA
Bệnh lý cơ xương khớp, với những cơn đau dai dẳng và hạn chế vận động, đã và đang trở thành nỗi ám ảnh của rất nhiều người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống.
Bệnh viện Quốc tế DNA: Điểm đến tin cậy cho sức khỏe và sắc đẹp
Kể từ khi thành lập vào ngày 1/7/2018, Bệnh viện Quốc tế DNA đã có những bước đi đột phá, tiên phong trong việc phát triển các công nghệ về y khoa hàng đầu trên thế giới. Bệnh viện tập trung cung cấp các giải pháp chăm sóc sức khỏe và chống lão hóa hiệu quả nhờ hệ sinh thái dịch vụ toàn diện.
Chẩn đoán bệnh nhồi máu não theo hướng dẫn của Bộ Y tế
Nhồi máu não, một dạng đột quỵ phổ biến, xảy ra khi lưu lượng máu lên não bị gián đoạn, khác biệt hoàn toàn so với xuất huyết não do hiện tượng chảy máu trong não. Loại đột quỵ này chiếm 70-80% các trường hợp và có khả năng điều trị thành công cao hơn, trong khi xuất huyết não thường gây nguy cơ tử vong hoặc để lại di chứng tàn phế nghiêm trọng.
Xử trí, điều trị và tiên lượng bệnh nhồi máu não
Khi phát hiện bệnh nhân đột quỵ, cấp cứu 115 nên nhanh chóng vận chuyển bệnh nhân an toàn đến cơ sở y tế được trang bị máy chụp CT sọ não và có khả năng điều trị bằng thuốc tiêu sợi huyết để đem lại cho bệnh nhân đột quỵ cơ hội tốt nhất.
Những điều cần biết về bệnh nhồi máu não
Đột quỵ thiếu máu não cục bộ cấp tính (acute ischemic stroke) hay còn gọi là nhồi máu não là tình trạng dòng máu đột ngột không lưu thông đến một khu vực của não làm mất chức năng thần kinh tương ứng.