Thông tin Y khoa: Hội chứng não thực thể (Tên Tiếng Anh: Brain syndrome)
Rối loạn thể chất nhận thức, trí năng hoặc chức năng tâm thần, ngược với bệnh tâm thần.
Tình trạng diễn tiến trong đó các tế bào thần kinh ở não thoái hóa và kích thước chất não co lại. Bệnh Alzheimer là nguyên nhân phổ biến nhất gây sa sút trí tuệ.
Bệnh Alzheimer gây khoảng 75% trường hợp sa sút trí tuệ ở những người trên 65 tuổi. Vì số lượng người già đang tăng lên, việc quan tâm và nghiên cứu những nguyên nhân và cách điều trị bệnh Alzheimer đã có được những tiến bộ lớn lao trong những năm gần đây. Nhưng không thể làm ngừng được diễn tiến của bệnh.
Nguyên nhân của bệnh Alzheimer đã rõ ràng với những nghiên cứu gần đây. Thứ nhất, có những yếu tố về di truyền. Bệnh Alzheimer khởi phát sớm, hay trong gia đình, có những triệu chứng phát ra trước tuổi 60, được di truyền như một rối loạn trội (xem
Genetics-Di truyền học). Bệnh Alzheimer khởi phát muộn dường như kết hợp với một trong ba gen chi phối protein máu, apolipoprotein E. Người ta cho rằng khoảng 25% dân số thế giới có biến thể của loại protein này kết hợp với bệnh.
Các gen gây bệnh tạo ra những mảng lắng đọng chất protein được gọi là beta amyloid trong não. Có những bất thường hóa học khác là thiếu hụt chất dẫn truyền thần kinh acetylcholin.
Hiếm thấy bệnh khởi phát trước tuổi 60, nhưng sau đó tăng đều đặn cùng với tuổi tác. Khoảng 30% những người trên 85 tuổi bị ảnh hưởng.
Các đặc điểm của bệnh khác nhau đối với từng người, nhưng có ba giai đoạn chính. Vào giai đoạn đầu, bệnh nhân giảm dần trí nhớ và có thể cố gắng bù đắp bằng cách tạo những danh sách việc cần làm và tìm sự giúp đỡ của người khác. Một số sự giảm trí nhớ là đặc điểm của lão hóa, và khi chỉ có dấu hiệu này thì không phải là bằng chứng của sa sút trí tuệ. Những vấn đề về trí nhớ do bệnh Alzeheimer có thể gây lo âu và trầm cảm.
Tính hay quên chuyển dần sang giai đoạn thứ hai, mất trí nhớ trầm trọng, đặc biệt là với những sự kiện mới diễn ra gần đây. Bệnh nhân có thể nhớ những sự kiện đã diễn ra trước đó lâu ngày, như thời còn đi học nhưng không thể nhắc lại tên người khách hôm qua đến thăm nhà hoặc những gì họ xem trên truyền hình. Họ cũng bị mất phương hướng với thời gian và không gian, thậm chí quên đường đi lại ở vùng quanh khu nhà đang sống. Sự tập trung và khả năng số học giảm sút và có thể nhận thấy rõ loạn phối hợp từ. Lo lắng tăng lên, tính tình thay đổi không thể đoán trước được.
Ở giai đoạn thứ ba, bệnh nhân bị xáo trộn và mất phương hướng nặng. Họ cũng có thể có những triệu chứng của chứng rối loạn tâm thần, như ảo giác và hoang tưởng hệ thống. Các triệu chứng xấu dần do sự mất phương hướng và mất trí nhớ, thường mạnh nhất vào đêm. Các dấu hiệu của bệnh liên quan đến hệ thần kinh bắt đầu xuất hiện, như bất thường phản xạ và không kiểm soát được việc tiểu tiện và đại tiện. Một số bệnh nhân trở nên rất khắt khe, khó chịu và đôi khi hung dữ và mất toàn bộ nhận thức về các quy tắc của xã hội. Những người khác trở nên dễ bảo và không tự lo liệu cho mình được. Họ bỏ mặc việc vệ sinh cá nhân và đi lang thang, tự trò chuyện một mình. Cuối cùng, sự chăm sóc của những người thân là không thể được, phải đưa vào bệnh viện là điều chắc chắn. Một khi bệnh nhân nằm liệt giường, các biến chứng của loét theo tư thế nằm, các vấn đề khi ăn uống và viêm phổi làm giảm tuổi thọ.
Bệnh Alzheimer thường được chẩn đoán từ những triệu chứng và dấu hiệu của bệnh nhân. Điện não đồ cho thấy sự chậm chạp của các sóng não. Chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ cho thấy sự thu hẹp kích thước não. Các kiểm tra về tình trạng trí tuệ cho thấy sự giảm sút khả năng vận dụng trí óc.
Bệnh Alzheimer có thể được chẩn đoán chỉ bằng kiểm tra não hoặc bằng sinh thiết (lấy một mẩu mô nhỏ để phân tích dưới kính hiển vi) hoặc sau khi chết. Kiểm tra bằng kính hiển vi cho thấy sự biến mất của các tế bào não, có các đốm nhỏ và tình trạng lộn xôn của các dây thần kinh như một cuộn chỉ bị tháo tung.
Nên tiến hành những kiểm tra khác để loại trừ các nguyên nhân có thể khác gây những triệu chứng giống như bệnh Alzheimer. Khoảng 10% những người có những triệu chứng như vậy có bệnh có thể điều trị được như thiểu năng tuyến giáp, thiếu vitamin B/2?
bướu não, hoặc ổ tụ huyết dưới màng cứng. Những người già bị sa sút trí tuệ do trầm cảm có biểu hiện của sa sút trí tuệ nhưng thường do ảnh hướng của trầm cảm và có thế điều trị được.
Hướng điều trị quan trọng nhất đối với bệnh Alzheimer là cung cấp sự chăm sóc và sự quan tâm của xã hội phù hợp với người mắc bệnh và những người thân của họ. Một chế độ ăn tốt, luyện tập, có được sự giúp đỡ làm giảm bớt lo âu và buồn bực, đặc biệt ở giai đoạn đầu của bệnh khi bệnh nhân vẫn có thể nhận thức đầy đủ về tình trạng của họ. Thuốc an thần thường giúp bệnh nhân giảm bớt những khó khăn và giúp họ ngủ tốt hơn. Hướng dẫn cho những thành viên của gia đình bệnh nhân có thể giúp ngăn chặn những vấn đề và giảm thiểu sự đổ vỡ của cuộc sống gia đình.
Những bệnh nhân Alzheimer thường được chăm sóc hữu hiệu nhất tại nhà.
Những bệnh viện hoặc trung tâm chăm sóc ban ngày và ngắn hạn sẽ làm giảm gánh nặng cho gia đình và cho phép bệnh nhân tiếp tục sống ở nhà nhiều thời gian hơn. Tuy nhiên, những trường hợp nặng cần nhập viện.
Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.
Rối loạn thể chất nhận thức, trí năng hoặc chức năng tâm thần, ngược với bệnh tâm thần.
Sự chảy máu trong hoặc quanh não hoặc do tổn thương, hoặc do vỡ tự phát mạch máu não.
Chết não là sự ngừng các chức năng của toàn bộ não không phục hồi được, kể cả thân não.
Các tế bào thần kinh và các đường dẫn truyền trong não bị thoái hóa hay chết. Tổn thương có thể khu trú ở những vùng đặc biệt của não, gây ra những triệu chứng chức năng đặc trưng của vùng đó như mất phối hợp vận động hay khó nói, hoặc tổn thương lan tỏa gây tàn phế nặng về tinh thần hay cơ thể.
Tình trạng tụ mủ, bao quanh bởi các mô bị viêm ở trong hay bề mặt não.
Một nhóm dây thần kinh đi từ phần dưới của cột sống cổ và phần trên của cột sống ngực xuống hai cánh tay. Các dây thần kinh chia thành dây thần kinh cơ bì, nách, giữa, trụ và quay để kiểm soát các cơ và nhận cảm giác từ bàn tay và tay.