Thông tin Y khoa: AIDS (Tên Tiếng Anh: AIDS)

Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, một sự thiếu hụt trong hệ thống miễn dịch do nhiễm HIV (virus suy giảm miễn dịch người)

Ở hầu hết các nước, bệnh và tử vong do AIDS đang là vấn đề nổi cộm. Tính đến cuối năm 2003, cả thế giới có khoảng 60 triệu người nhiễm HIV, hơn một phần ba trong số này đã chết. Riêng năm 2003 có khoảng 4,8 triệu trường hợp mới phát hiện (trong đó có 630.000 trẻ em), tử vong 2,9 triệu người (trong đó 490.000 là trẻ em). Các loại thuốc có hiệu quả cao, làm chậm tiến triển của bệnh và đôi khi hồi phục sức khỏe mặc dù chưa có cách điều trị thành công hoặc chưa có vaccin, nhưng lại quá đắt.

Tỉ lệ mắc bệnh

AIDS không xảy ra với tất cả những người nhiễm HIV. Tỉ lệ những người nhiễm virus HIV phát triển thành AIDS khác nhau rất nhiều ở những quốc gia và những nhóm nguy cơ khác nhau. Mỗi năm, bệnh AIDS tăng từ một đến năm phần trăm với những người nhiễm HIV. Khoảng thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi phát bệnh AIDS rất khác nhau. Khoảng một nửa những người nhiễm HIV phát bệnh AIDS trong khoảng từ 8 đến 9 năm.

Ở Việt Nam, tính đến suối năm 2003 có 76.186 người nhiễm HIV. Riêng trong năm 2003, có 16.980 trường hợp mới được phát hiện, 2.866 người đã chuyển sang giai đoạn AIDS, tử vong 1.061 người.

Ở các nước phương Tây, nhóm có nguy cơ chính là những nam giới đồng tính luyến ái hoặc lưỡng tính và những người tiêm chích ma túy sử dụng kim tiêm và bơm tiêm không vô trùng.

Nhiều người bị bệnh ưa chảy máu cũng bị nhiễm vào đầu những năm 80 do nhận những sản phẩm máu bị nhiễm bệnh, nhưng ngày nay nguyên nhân gây bệnh này hầu như không còn vì việc kiểm tra máu rất nghiêm ngặt.

Những nhóm nguy cơ khác bao gồm những người có quan hệ tình dục với người bị mắc bệnh, trẻ sinh từ mẹ mắc bệnh và những người bị truyền máu của người mắc bệnh.

Lịch sử bệnh

Vào năm 1981, Trung tâm kiểm soát bệnh tại Atlanta, bang Georgia, Mỹ đã thông báo những trường hợp viêm phổi hiếm thấy ở nam giới đồng tính luyến ái trước đó rất khỏe mạnh tại Los Angeles và sau đó tại New York. Bệnh được cho là do Pneumocystis carinii, một loại sinh vật đơn bào trước đó gây bệnh viêm phổi chỉ ở những bệnh nhân mà khả năng miễn dịch bị ức chế.

Sau đó, những trường hợp với những khối u hiếm thấy (sarcom Kaposi) được phát hiện tại những nam giới đồng tính luyến ái trẻ; nó được xác nhận là khối u phát triển chậm trên da trước đó chủ yếu thấy tại châu Phi. Ở những người mắc bệnh AIDS, khối u phát triển nhanh hơn và cũng có ở những phần khác của cơ thể.

Sau khi bệnh trên xuất hiện, dường như có một bệnh dịch lan nhanh trong đó tình trạng của bệnh kết hợp với sự suy yếu hệ thống miễn dịch. Một số bệnh nhiễm khuẩn khác cũng được phát hiện, phần lớn là nhiễm khuẩn cơ hội (bệnh nhiễm khuẩn không ảnh hưởng đến những người mà hệ thống miễn dịch còn có hiệu lực).

Những tình trạng này được nhận thấy không chỉ ở trên những nam giới đồng tính luyến ái nam, mà còn ở những người tiêm chích ma túy và những người mắc bệnh máu khó đông, điều này gợi ý lây truyền bệnh có liên quan đến máu cũng như liên quan đến quan hệ tình dục. Một nguyên nhân lây nhiễm dường như có khả năng, là vào năm 1984, những nhà nghiên cứu người Mỹ và Pháp đã phát hiện ra virus gây bệnh mà ngày nay gọi là là virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV1). Một loại virus tương tự, HIV 2 cũng được coi là nguyên nhân gây một số trường hợp mắc bệnh AIDS tại châu Phi.

Ảnh hưởng của virus

Các virus xâm nhập vào dòng máu và nhiễm vào các tế bào có thụ thể CD4 trên bề mặt. Những tế bào này bao gồm một số tế bào trong não và một loại bạch cầu (lympho CD4) đáp ứng với nhiễm trùng. Virus nhân lên trong tế bào, tế bào chết, giải phóng nhiều phần tử virus vào máu. Nếu không điều trị, số lượng lympho CD4 bắt đầu giảm xuống, hậu quả là dễ bị nhiễm khuẩn và ung thư. Tuy nhiên, nhiều cá nhân bị nhiễm không có dấu hiệu của bệnh gọi là người mang bệnh không triệu chứng hoặc có những triệu chứng không rõ ràng như sút cân, sốt, đổ mồ hôi hoặc ỉa chảy không có nguyên nhân. Những người thuộc nhóm này được gọi là phức hợp có liên quan đến AIDS (viết tắt ARC).

Phương thức truyền bệnh

HIV đã được phân lập từ máu, tinh dịch, nước bọt, nước mắt, mô thần kinh, sữa (của người mẹ) và chất tiết từ cơ quan sinh dục nữ. Tuy nhiên chỉ có máu và tinh dịch có khả năng truyền virus.

Phương thức truyền bệnh chủ yếu là quan hệ tình dục (đưa dương vật vào hậu môn, âm đạo hoặc miệng), máu vào máu (thông qua truyền máu hoặc dùng chung kim tiêm), và từ người mẹ vào bào thai. Những phương thức hiếm thấy khác là chấn thương tình cờ do kim châm vào người, thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng được cho, và ghép thận. Các xét nghiệm trên người cho đã giảm những nguy cơ này xuống rất thấp.

Bệnh không truyền khi tiếp chạm hoặc ôm hôn, bằng cách cùng thở chung một bầu không khí, dùng chung bát đĩa hoặc dao ăn. Trên thế giới, mại dâm là phương thức chủ yếu để truyền bệnh.

Triệu chứng và dấu hiệu

Người bị nhiễm virus có thể không có triệu chứng; một số khác trải qua những cơn bệnh ngắn tương tự như bệnh tăng bạch cầu đơn nhân. Những kiểm tra y học trên những người này có thể phát hiện những bất thường, phần lớn có hạch to nhiều nơi.

Những đặc điểm thứ yếu của nhiễm

HIV là rối loạn da như viêm da do tăng tiết bã nhờn (viêm da, đặc biệt ở mặt). Những đặc điểm nặng hơn bao gồm sút cân, tiêu chảy sút cân, sốt và bệnh nấm Candida ở mông.

Những bệnh viêm nhiễm phổ biến hơn và nặng hơn ở bệnh nhân nhiễm HIV bao gồm bệnh zona, bệnh lao, bệnh nhiễm Salmonella và nhiễm Shigella. HIV cũng ảnh hưởng đến não, gây nhiều rối loạn thần kinh, bao gồm cả sa sút trí tuệ.

Đặc điểm của những trường hợp

AIDS toàn phát bao gồm ung thư (như sarcom Kaposi và bướu), bệnh tự miễn dịch (đặc biệt là chứng giảm tiểu cầu) và một loạt các bệnh nhiễm trùng (như viêm phổi do pneumocystis, nhiễm cytomegalovirus nặng, bệnh do toxoplasma, tiêu chảy do Cryptosporidium hoặc Isospora, bệnh nấm Candida, bệnh giun lươn, bệnh Cryptococcus, và nhiem herpes simplex mạn tính).

Chẩn đoán

Một người có hạch bạch huyết to hoặc sút cân không có lý do có thể bị nghi ngờ nhiễm HIV nếu người này ở trong nhóm nguy cơ cao.

Xác nhận nhiễm HIV đòi hỏi phải kiểm tra mẫu máu tìm kháng thể kháng HIV; kiểm tra sự có mặt của virus khó hơn nhiều. Kết quả kiểm tra kháng thể kháng HIV dương tính thường chỉ ra sự có mặt của virus; phần lớn những cá nhân có kháng thể dương tính là những người mang virus. Kết quả kiểm tra dương tính luôn luôn được xem xét lại bằng kiểm tra xác nhận. Kết quả âm tính có thể xảy ra ở những người tiếp xúc với virus trong khoảng thời gian rất gần; vì lý do này, kết quả âm tính phải được tiếp tục kiểm tra định kỳ sau sáu tháng nếu người đó ở trong nhóm nguy cơ cao.

Chẩn đoán AIDS toàn phát thường dựa vào kết quả thử nghiệm HIV dương tính, cùng với các bệnh nhiễm trùng và bướu đặc trưng.

Phòng bệnh

Cho đến khi tìm ra phương pháp điều trị hoặc một loại vaccin, phòng bệnh là phương pháp quan trọng nhất để chống lại bệnh AIDS. Các nguy cơ có thể giảm bớt bằng quan hệ tình dục an toàn.

Bất cứ ai cảm thấy bị nhiễm virus nên đi kiểm tra máu mặc dù trước tiên nên tư vấn về ưu điểm của thử nghiệm và những vấn đề liên quan khi kết quả dương tính. Một người biết rằng mình đã bị nhiễm bệnh nên hạn chế sinh hoạt tình dục để tránh làm lây lan sang người khác. Một người chưa nhiễm bệnh nên sử dụng kỹ thuật an toàn tình dục để không bị nhiễm.

Kỹ thuật quan hệ tình dục an toàn bao gồm giảm bớt số bạn tình; một cách lý tưởng, quan hệ tình dục nên giới hạn ở những người có tiểu sử tình dục rõ ràng. Tránh giao hợp hậu môn, âm đạo không được bảo vệ. Sờ mó, ôm nhau, thủ dâm cho nhau, hôn khô đều vô hại. Nước bọt có thể có chứa virus nhưng nó không có khả năng trở thành một đường truyền bệnh quan trọng; nguy cơ truyền bệnh do hôn nhau có nước bọt chưa được biết, dương vật nên đeo bao cao su. Các chất diệt tinh trùng bất hoạt virus và cũng nên dùng. Nguy cơ của sinh hoạt tình dục đường miệng chưa được biết đầy đủ, nhưng nên tránh xuất tinh vào miệng.

Những người dùng thuốc qua đường tĩnh mạch không nên dùng chung kim tiêm, phòng sự lan truyền bệnh; những bạn tình của những người thuộc nhóm này cũng có nguy cơ.

Tại nhiều quốc gia, gái mại dâm chiếm tỉ lệ lớn trong việc lan truyền HIV. Họ nên được khuyến khích sử dụng bao cao su để bảo vệ chính họ và các khách hàng của họ.

Có một tỉ lệ nhỏ nguy cơ cho những người làm việc trong bệnh viện và các tổ chức y tế có tiếp xúc các sản phẩm máu và/hoặc kim tiêm bị nhiễm. Khả năng nhiễm HIV qua kim tiêm trong bệnh viện là có nhưng khá thấp; nó được giảm tối thiểu nếu cẩn thận khi làm việc với các dụng cụ sắc. Những người thuộc nhóm có nguy cơ không nên cho máu, tinh dịch hoặc các bộ phận của cơ thể.

Điều trị

Cho tới gần đây, điều trị duy nhất đối với AIDS là nhằm vào các bệnh nhiễm trùng và ung thư liên quan đến AIDS. Có những nhóm hỗ trợ đưa ra những lời khuyên tâm lý và linh hoạt.

Tuy nhiên, năm 1996, điều trị HIV bằng kết hợp các thuốc kháng virus đã cho thấy làm chậm tiến triển của bệnh và trong những trường hợp có thể hồi phục sức khỏe. Các loại thuốc kháng virus chính được sử dụng là ức chế protease như indinavir và ức chế transcriptase như zidovudin. Các thử nghiệm hoàn thành cuối những năm 90 cho thấy điều trị kết hợp 2 hoặc 3 loại thuốc này làm tăng số lượng lympho CD4 và làm mất các phần tử virus có thể phát hiện trong máu. Hồi phục nhiễm trùng phổi và ruột kết hợp với những thay đổi này. Tuy nhiên, ở một số người, virus kháng một số thuốc nhưng nhiều người có triệu chứng vẫn hồi phục sức khỏe gần như bình thường. Ngày càng có nhiều loại thuốc mới nên hy vọng rằng kháng thuốc không còn là vấn đề nữa.

Các thử nghiệm hiện tại đang khám phá ra thời điểm tốt nhất để bắt đầu điều trị và thời gian điều trị duy trì.

Điều trị cũng nhằm vào các bệnh liên quan đến AIDS như viêm phổi do Pneumocystis và sarcom Kaposi.

Điều trị bằng nhiều loại thuốc là rất đắt nên ở hầu hết các nước những người nhiễm HIV không có khả năng dùng các thuốc trừ khi họ tham gia vào các nghiên cứu.

Tiên lượng

Ở các nước giàu, nhiễm HIV hiện nay vẫn là bệnh phức tạp, nguy hiểm nhưng không phải là chỉ có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên, HIV vẫn đe dọa tính mạng và hầu hết các chiến lược hiệu quả để đẩy lùi bệnh vẫn còn là phòng nhiễm HIV.

Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.

Tin khác

Thông tin y khoa: Ung thư vòm họng (tên tiếng Anh: Pharyngeal cancer)

Thông tin y khoa: Ung thư vòm họng (tên tiếng Anh: Pharyngeal cancer)

Ung thư họng có các khối u ở ty hầu, phần trên cùng của họng, có nguyên nhân và triệu chứng khác với khối u xuất hiện ở vị trí khác trong họng

Từ điển Y khoa  - 
Thông tin Y khoa: Bàng quang (Tên Tiếng Anh: Bladder)

Thông tin Y khoa: Bàng quang (Tên Tiếng Anh: Bladder)

Một cơ quan rỗng, dạng cơ ở phần dưới khoang bụng hoạt động như một khoang chứa nước tiểu.

Từ điển Y khoa  - 
Thông tin Y khoa: Chứng co quắp mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharospasm)

Thông tin Y khoa: Chứng co quắp mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharospasm)

Co không chủ ý, kéo dài ở một trong các cơ điều khiển mi mắt, khiến mắt nhắm lại.

Mắt  - 
Thông tin Y khoa: Khối u bàng quang (Tên Tiếng Anh: Bladder tumours)

Thông tin Y khoa: Khối u bàng quang (Tên Tiếng Anh: Bladder tumours)

Khối u phát triển từ niêm mạc bàng quang.

Nội nội tổng hợp  - 
Thông tin Y khoa: Phẫu thuật tạo hình mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharoplasty)

Thông tin Y khoa: Phẫu thuật tạo hình mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharoplasty)

Giải phẫu thẩm mỹ để lấy bớt da nhăn nheo ở mi trên và/hoặc mi dưới.

Mắt  - 
Thông tin Y khoa: Viêm mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharitis)

Thông tin Y khoa: Viêm mi mắt (Tên Tiếng Anh: Blepharitis)

Viêm mi mắt với da ở phần bờ mi đỏ, ngứa và có vảy. Bệnh nhân có thể cảm thấy nóng rát và khó chịu ở mắt và cứng mi. Đôi khi, bề mặt của mắt cũng có thể bị viêm và đỏ.

Mắt  -