Thông tin Y khoa: Sự đốt, đốt cháy (Tên Tiếng Anh: Cauterization)
Một ứng dụng của dụng cụ đốt nóng hoặc chất ăn da để phá hủy các mô hay ngăn không cho các mô chảy máu hay để thúc đẩy quá trình lành vết thương.
Một đơn vị cấu trúc cơ bản của cơ thể. Mỗi người có hàng tỉ tế bào, có chức năng và cấu trúc hợp thành một thể thống nhất để thực hiện những công việc gần như không giới hạn của cuộc sống.
Có sự khác nhau rất lớn giữa các tế bào trong cơ thể. Ví dụ: hồng cầu trưởng thành có đường kính chỉ khoảng 0,0075 mm, và biệt hóa cao trong chức năng vận chuyển oxy mà nó không có một số cấu trúc bên trong như trong các tế bào bình thường khác, như nhân.
Trái lại, tế bào thần kinh có chiều dài là 1 mm hoặc hơn và chuyên hóa trong việc vận chuyển những xung thần kinh.
Mặc dù có những sự khác nhau về chi tiết, phần lớn các tế bào trong cơ thể có cấu trúc giống nhau. Mỗi tế bào là một túi nhỏ chứa một chất lỏng là tế bào chất, được bao quanh bởi lớp "da" gọi là màng tế bào. Trong tế bào chất là nhân (trừ hồng cầu) và các cấu trúc đặc biệt khác được biết như tập hợp các bào quan.
Được tạo nên từ lớp kép gồm các chất béo và protein, màng tế bào bao phủ và giữ các tế bào với nhau. Chức năng quan trọng khác của nó là điều hòa sự lưu thông các chất đi vào và ra tế bào. Do đó cho phép các chất có ích (như oxy và chất dinh dưỡng) đi vào tế bào và các chất bỏ đi (như carbon dioxid) và các chất được dùng ở các nơi khác trong cơ thể (tỉ như hormon) ra khỏi tế bào. Các phân tử nhỏ có thể tự do đi qua màng tế bào, nhưng các phân tử lớn đòi hỏi có hệ thống vận chuyển phân tử đặc biệt để đi qua màng tế bào.
Trung tâm điều khiển của tế bào, nhân quản lý toàn bộ hoạt động và chức năng chính. Nhân dùng ảnh hưởng của nó để điều chỉnh số lượng và các loại protein được sản xuất trong tế bào. Protein có hai chức năng chính.
Protein lớn, protein cấu trúc tạo nên các cấu trúc dai, mềm của cơ thể (như các thớ cơ). Protein nhỏ hơn được gọi là enzym điều hòa mọi hoạt động và chức năng của tế bào.
Nhiễm sắc thể (chất liệu di truyền của tế bào), dưới hình thức acid nucleic, được biết đến dưới tên gọi ADN, nằm trong nhân tế bào. ADN chứa những chỉ thị cho việc tổng hợp protein. Những chỉ thị này được chuyển cho tế bào chất bằng một loại ARN, loai acid nucleic khác. Những phần tử được gọi là ribosom trong bào chất đóng vai trò quan trọng trong việc giải mã cho việc tổng hợp protein.
Cùng với nhân, tế bào còn chứa các nội bào quan khác, mỗi loại có một vai trò đặc biệt.
Lưới nội bào là một lưới gắn liền với màng tế bào thành một màng phức tạp. Lưới có phần thô và nhắn. Lưới nội bào thô được bao bởi ribosome giúp cho việc tổng hợp protein.
Một khi đã hoàn thành, protein được chuyển sang các hệ thống màng tế bào khác, bộ máy Golgi. Ở đây, các cấu trúc protein được thay đổi và được đóng gói vào các túi sẽ sinh ra ở bề mặt của chúng.
Năng lượng được sinh ra từ sự phân hủy đường và các acid béo bởi các nội bào quan được gọi là ty lạp thể. Những ty lạp thể này có dạng giống như hột cà phê và có một màng phức tạp bên trong bề mặt. Những tế bào đòi hỏi năng lượng cao, như các tế bào cơ hay gan, có một số lớn các ty lạp thể.
Nhiều sự phát triển của tế bào kèm theo các chất có thể gây nguy hiểm cho tế bào nếu chúng tiếp xúc với tế bào chất, vì thế, chúng được chứa trong những túi gọi là tiêu thể (lysosom) và peroxisom.
Tiêu thể là cấu trúc tiêu hóa quan trọng của tế bào mà enzym phân hủy thành nhiều phần nhỏ, như vi khuẩn. Peroxisom trung hòa các chất độc.
Những kỹ thuật mới dành cho việc nghiên cứu cấu trúc tế bào đã chỉ ra rằng bào tương chứa một mạng vi ống (ống siêu nhỏ) và sợi (vi sợi) được biết đến như là bộ khung của tế bào. Mạng này cho tế bào một hình dáng nhất định và cho phép nó chuyển động.
Thêm nữa, vi sợi kích thích lông nhung (chỗ nhỏ lồi ra ở bề mặt tế bào), làm tăng bề mặt tế bào. Vi sợi cũng tạo nên những vi cơ, giúp tế bào chuyển động và thu nhỏ lại.
Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.
Một ứng dụng của dụng cụ đốt nóng hoặc chất ăn da để phá hủy các mô hay ngăn không cho các mô chảy máu hay để thúc đẩy quá trình lành vết thương.
Một thuật ngữ dùng cho bất cứ chất nào có tác động ăn mòn hoặc cháy trên các mô cơ thể. Một ví dụ là chất ăn da soda, một tên thông dụng cho natri hydroxid.
Đau rát bỏng, dai dẳng, thường ở chân và tay. Phần da trên chỗ bị đau có thể đỏ, nhạy cảm đau, hoặc xanh, lạnh và ướt.
Loa tai phồng to, đau, là hậu quả của cú đánh hay va chạm gây ra chảy máu trong khung sụn mềm. Triệu chứng này thường xuất hiện ở những vận động viên chơi bóng bầu dục hoặc quyền anh.