Thông tin Y khoa: Xương giòn (Tên Tiếng Anh: Brittle bone)
Mức độ dễ gãy của xương có xu hướng tăng lên.
U ở trong xương.
U xương có thể là ác tính (xem Bone cancer - Ung thư xương) hoặc lành tính.
U xương lành tính được xếp thành các loại khác nhau. Phổ biến nhất là u xương sụn, u hỗn hợp cả xương và sụn, thường khởi phát từ tuổi nhỏ.
Các loại khác là u xương, loại u tròn nhẵn ở xương, và u sụn được tạo thành từ các tế bào sụn và chủ yếu gặp ở bàn tay hay bàn chân (xem Chondromatosis - Bệnh u sụn). U xương và u sụn không đau và có thể ở bất kỳ xương nào trên cơ thể.
Không cần điều trị trừ khi khối u rất to, mất thẩm mỹ hoặc gây các triệu chứng do chèn ép lên các cấu trúc khác (như động mạch hoặc dây thần kinh). Trong những trường hợp như vậy, khối u có thể được cắt bỏ bằng phẫu thuật.
Loại u xương lành tính khác là u xương tế bào khổng lồ. Loại u này thường gặp ở tay hoặc chân của người trưởng thành trẻ tuổi, gây đau và nên được cắt bỏ.
Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.
Mức độ dễ gãy của xương có xu hướng tăng lên.
Ung thư xương có thể bắt nguồn từ xương (nguyên phát) hoặc thường gặp hơn, do di căn của ung thư từ nơi khác (ung thư xương thứ phát). Mô ung thư xương gây đau, sưng, làm xương dễ gãy hơn (dù không do chấn thương).
Hốc bất thường trong xương, thường chứa đầy dịch. Thường phát triển ở một đầu của xương dài.
Phẫu thuật trong đó một mẩu nhỏ xương được lấy từ một phần cơ thể để hiệu chỉnh xương bị tổn thương ở phần khác. Ghép xương là gắn với xương có khuyết tật và cung cấp protein kích thích phát triển xương.
Kỹ thuật dùng tủy xương bình thường để thay thế tủy bị thiếu hoặc tủy bị bệnh ác tính.