Thông tin Y khoa: Động mạch cảnh (Tên Tiếng Anh: Carotid artery)
Một trong bốn động mạch chủ yếu của cổ và đầu.
Sự đặc lại của máu.
Máu bắt đầu đông trong vòng vài giây khi có vết cắt đứt ở da. Cục máu giúp hàn kín tổn thương mạch máu, mạch máu cũng co lại để giúp giảm thiểu lượng máu mất đi. Tuy nhiên, đông máu không phải bao giờ cũng có lợi. Các cục máu được thành lập trong các mạch máu lớn cũng là nguyên nhân của nhồi máu cơ tim, đột quỵ và những rối loạn khác (xem Thrombosis - Huyết khối).
Tiến trình đông máu gồm: Kích hoạt và kết tụ tiểu cầu trong máu; Thành lập các sợi fibrin bao vây các tiểu cầu, hồng cầu và bạch cầu.
Để ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông bên trong các mạch máu bình thường, máu còn có các cơ chế phá vỡ và làm tan cục máu. Điều này cân bằng với cơ chế đông máu. Bình thường sự cân bằng chỉ thiên về hình thành cục máu đông khi mạch máu bị tổn thương.
Tiểu cầu được "kích hoạt" trước khi kết tụ. Điều này xảy ra khi tiểu cầu tiếp xúc với thành mạch bị tổn thương hay với bề mặt nhân tạo (như kính) khi dòng máu bị xoáy hay khi tiểu cầu bị kích hoạt bởi vài hóa chất được bài tiết trong máu.
Khi đã bị kích hoạt, tiểu cầu trở nên dễ dính, dính ngay vào các bề mặt. Chúng thay đổi hình dạng từ dạng đĩa sang dạng cầu nhọn, kết thành mạng lưới. Sau cùng, thải ra hóa chất để kích hoạt các tiểu cầu khác và làm cho mạch máu co lại.
Tiến trình này gọi là đông máu, được xúc tiến bởi các hóa chất được tiết ra bởi các tiểu cầu kích hoạt hoặc bởi các mô tổn thương. Một loạt các phản ứng phức tạp trong huyết tương xảy ra còn gọi là dòng thác đông máu. Với mỗi bước của dòng thác, một yếu tố đông máu trong huyết tương được chuyển từ dạng bất hoạt sang dạng hoạt động. Dạng hoạt động của yếu tố đông máu sẽ kích hoạt thêm nhiều phần tử của yếu tố tiếp theo trong chuỗi phản ứng và tiếp tục cho tới bước cuối, một yếu tố gọi là fibrinogen được biến thành fibrin.
Do có nhiều yếu tố tham gia, sự kích hoạt của một phân tử yếu tố đầu tiên có thể dẫn tới sự sản xuất ồ ạt đến 30.000 phần tử fibrin ở tại chỗ bị tổn thương.
Những yếu tố tham gia và quá trình đông máu được đánh số I, II và từ V đến XIII, được gọi là yếu tố đông máu: Yếu tố I là fibrinogen. Yếu tố II, tiền thân trực tiếp của dòng thác đông máu, được gọi là prothrombin.
Hầu hết các yếu tố đông máu được tạo ra ở gan. Một chế độ ăn uống đầy đủ vitamin K, có trong rau xanh, rất cần cho việc thành lập của vài yếu tố đông máu.
Nhiều cơ chế riêng biệt hoạt động để ngăn ngừa sự kích hoạt của tiểu cầu và thành lập fibrin ngoài ý muốn.
Kích hoạt tiểu cầu được ngăn chặn chủ yếu bởi chất prostacyclin (một loại prostaglandin) được bài tiết bởi các thành mạch máu lành mạnh.
Tạo lập fibrin được khống chế bởi nhiều cơ chế. Đầu tiên, một số men ức chế (loại protein) lưu thông trong máu làm trung hòa các yếu tố đông máu bị kích hoạt mà quan trọng nhất là kháng thombin III. Tiếp đến, những loạt enzym được kích hoạt đồng loạt như trong dòng thác đông máu. Những men này tạo thành chất plasmin sẽ phân hủy fibrin. Thêm nữa, dòng máu có xu hướng chống lại sự đông máu bằng cách rửa sạch các yếu tố đông máu nơi nó được tạo lập và gan làm bất hoạt bất cứ yếu tố đông máu nào được tạo ra quá nhiều.
Những khiếm khuyết có thể xảy ra do nhiều loại nguyên nhân trong cơ chế đông máu hoặc cơ chế chống đông làm nghiêng sự cân bằng có khuynh hướng hoặc chảy máu hoặc tạo thành cục máu đông.
Vài bệnh nhân có khiếm khuyết di truyền ngăn chặn sự thành lập một lượng đủ của một trong những yếu tố đông máu. Trong những trường hợp hoặc có ít tiểu cầu được sản xuất, thiếu vitamin K (vitamin cần thiết để thành lập một vài yếu tố đông máu) được hấp thu từ thức ăn hoặc dư thừa men ngăn chặn đông máu. Những tình trạng trên có thể đưa tới khuynh hướng chảy máu lượng lớn.
Mặt khác, đôi khi cân bằng bị nghiêng một cách bất thường về phía đông máu. Những nguyên nhân gồm: gia tăng lượng các yếu tố đông máu di truyền, liên quan đến dùng viên thuốc tránh thai. Giảm các enzym ngăn chặn đông máu (như trong một vài bệnh gan); hoặc, dòng máu chảy chậm ở một vài vùng đặc biệt. Hậu quả có thể là huyết khối.
Các tình trạng trong đó có khuynh hướng hình thành cục máu đông được điều trị bằng thuốc chống đông máu như heparin hoặc warfarin. Heparin tác dụng chống đông bằng cách gia tăng hoạt tính của kháng thrombin III, làm trung hòa các yếu tố đông máu được kích hoạt. Warfarin cắt đứt dây chuyền sản xuất các yếu tố đông máu bằng cách ngăn chặn tác dụng của vitamin K. Việc sử dụng các thuốc chống đông phải được theo dõi thường nhật để phòng ngừa xuất huyết nặng vì, phải có sự thăng bằng giữa đông máu và cơ chế chống đông.
Tài liệu và thông tin trong bài viết này được trích dẫn từ cuốn Từ điển Bách khoa Y học Anh Việt A-Z mà tác giả là một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Ngô Gia Hy làm chủ biên.
Một trong bốn động mạch chủ yếu của cổ và đầu.
Sắc tố màu cam có trong cà rốt, cà chua và nhiều loại thực vật có màu khác, bao gồm cả rau lá xanh sẫm.
Sự ăn mòn dần men răng (lớp bảo vệ của răng) và ngà răng (chất ở dưới men răng).
Một thuật ngữ chung cho viêm bất cứ phần nào của tim hoặc thành của nó.
Một ngành phẫu thuật liên quan đến tim và các mạch máu.
Tiến hành các bước của các phương pháp hồi sinh bằng cách xoa bóp tim và hô hấp miệng - miệng cho người bị ngất do ngừng tim.